31/05/2017 18:20
Ngày nay ai cũng biết Sơn Trà là “con mắt Đông Dương”, “khu xung yếu”. Trước đây, vào thời nhà Nguyễn, việc quản lý Sơn Trà hết sức nghiêm mật, cấm ngặt tàu bè nước ngoài đậu đỗ, cư trú làm ăn.
Chiến hạm Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng (9.1858). Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng
Sơn Trà vốn được nhắc đến sớm trong các thư tịch cổ của quốc gia và quốc tế, Vào thế kỷ thứ 15, vua Lê Thánh Tông khi mang quân chinh phạt Chiêm Thành, dừng chân tại cửa biển Hải Vân, đã làm một bài thơ, trong đó câu: “Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt/Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền (Gió ru thuyền Lộ canh năm/Đồng Long đêm lặng, bóng trăng xế tà - Ngô Linh Ngọc dịch). Đồng Long tức chỉ Vũng Thùng dưới chân bán đảo Sơn Trà. Lộ Hạc tức những nước thuộc quần đảo Malacca. Điều này cho thấy vùng cửa biển Sơn Trà từ gần 600 năm trước đã là nơi giao thương quốc tế quan trọng. Thích Đại Sán, thiền sư Trung Quốc được chúa Nguyễn mời sang Đàng Trong vào thế kỷ thứ 17, cũng ghi chép phong cảnh Sơn Trà trong tác phẩm Hải ngoại kỷ sự, trong đó có thông tin về những loài vượn nhảy nhót ở bán đảo này. Trong thơ Phan Thanh Giản cũng có “tiếng vượn kêu không ngớt” ở nơi đây.
Điểm trọng yếu
Triều Nguyễn từ sớm đã nhận thức vai trò quan trọng của Sơn Trà, được ghi trong chính sử: “chỗ trọng yếu không đâu bằng vụng Trà Sơn”, là “chỗ trọng địa của bờ biển”. Lúc bấy giờ, triều Nguyễn cũng có một quan niệm hết sức cương quyết, không chấp nhận đánh đổi Sơn Trà để lấy kinh tế ngoại thương. Vua Minh Mạng nhấn mạnh: “hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được”, khi có sứ giả của ngoại quốc đến hiến sản vật và dâng đơn xin lập phố buôn ở Trà Sơn. Ở thời điểm khác, vua cũng nhắc nhở: “Thuyền người Tây dương đến buôn bán, chỉ cho thả neo đậu ở vụng Trà Sơn, đổi chác mua bán xong xuôi, lại bắt chở thuyền đi, không hề cho lên bờ ở lâu, nhân dân sở tại cũng không cho cùng họ trao đổi riêng”, thể hiện triết lý trị nước “việc ngăn lấp từ khi mới chớm ra, đề phòng từ khi còn nhỏ mọn”.
Năm 1830, Quốc trưởng Hoa Kỳ cử hai người đến xin “giao hiếu và thông thương”, vua sai Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phức tiếp vấn, rồi bảo quan Thương bạc trả lời, đại ý là “nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên là ta (vua Minh Mạng - NV) không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay, nếu có đến buôn bán thì cho đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng”. Thuyền buôn của Pháp, Anh cũng đến cửa biển Đà Nẵng vào các năm 1835, 1840, đều thả neo ở vụng Trà Sơn. Sau này, các đại thần triều Tự Đức cũng nhận thấy người Tây dương đến Sơn Trà “chẳng qua để cầu lợi thôi”, “muốn lập phố xá ở Trà Sơn để buôn bán sinh lợi”.
Triều đình nhà Nguyễn nhiều lần xây dựng và sửa chữa các cơ sở phong hỏa đài trên bán đảo Sơn Trà, cốt để khi có động thì đốt lửa báo tin. Ngoài ra, vua “cho là chỗ vụng Trà Sơn ở đầu cửa biển Đà Nẵng là chỗ trọng địa, công việc phòng bị nên phải mười phần chu đáo cẩn mật”. Vua sai Nguyễn Công Trứ đi thị sát “một dải núi ven bờ biển, chỗ nào xung yếu mà địa thế hơi bằng phẳng nên đặt pháo đài, để cho trên bờ dưới thuyền chiếu ứng với nhau được” rồi vẽ bản đồ dâng lên nhà vua. Sau đó Nguyễn Công Trứ xin xây dựng pháo đài hình bầu dục (dài 57 trượng, ngang 7 trượng) trên đảo Mỏ Diều với địa thế 4 mặt rộng rãi, đối diện với pháo đài Định Hải. Phía đông pháo đài mở một cửa, ven cửa xây lũy đá, trong dựng trại lính kho lương. Cuối cùng, đặt lầu trông ngắm ở đài đốt lửa cũ tại núi Trà Sơn, chế cấp cờ hiệu để lâm thời treo lên làm hiệu. Sau Nguyễn Tri Phương lại đề xuất: “Đảo Mỏ Diều nguyên từ núi Trà nhô ra, trông chếch về phía đầu nguồn Cu Đê. Nếu xây pháo đài hình bầu dục thì không những thấp méo nhiều đoạn, (…) xin đổi xây làm pháo đài tròn, đường kính 9 trượng, đặt 27 cỗ súng lớn. Kho thuốc súng, kho lương, trại lính đều làm ở trong đài, cho được chỉnh và tiện”. Vua theo lời rồi “sai phái 200 biền binh đến chỗ bãi cát Trà Sơn, chọn chỗ cao ráo làm một xưởng ngói (10 gian 2 chái)”, tổ chức biên ngũ “1 suất đội, 1 thư lại, 20 biền binh, 3 lính pháo thủ”. Triều Nguyễn đặt tên cho các đảo hàng ngoài cửa biển Đà Nẵng, tức bán đảo Sơn Trà, gọi là đảo Ngữ Hải.
Phòng thủ nghiêm ngặt
Việc phòng bị hải cương dưới triều Nguyễn cần hết sức nghiêm ngặt. Do vậy triều đình rất coi trọng việc nghiêm trị quan viên phụ trách ở Sơn Trà, thường xuyên ban hành quy định “nếu làm sai sót thì theo nặng nhẹ mà xử trị”. Theo đó, đã có những người bị “đánh ngay 100 trượng, đóng gông 10 ngày” vì cái tội không nhận dạng rõ, “xem xét không đúng” thuyền của ngoại quốc (Pháp) và thuyền Thủy sư của nước ta, trong khi đã được trang bị đầy đủ “kính thiên lý là để dùng trông xa cho rõ”. Hay như viên quan Nguyễn Văn Lượng đã bị nhà vua phạt 1 tháng lương, vì không giữ đúng nghi thức trong việc quản lý tàu bè cập vịnh Sơn Trà. Năm 1838, có một thuyền kiểu lạ (toàn thân sắc đen, 2 cột buồm đều nhau, đầu thuyền giống như cái ngà voi) ở “phận biển đảo Trà Sơn” nhưng quan viên tỉnh Quảng Nam đã không tâu lên, liền bị vua quở trách, “tạm cho ghi lỗi một lần, bắt phải tìm cách dẹp bắt”. Vua Thiệu Trị đã xử phạt Lãnh binh Nguyễn Đức Chung và Thự Tuần phủ Phạm Duy Trinh khi để cho tàu của người Pháp “vào đỗ ở vụng Trà Sơn, chúng lên bờ căng bạt đóng quân, bắn hơn 60 phát súng lớn” vào năm 1841. Vua Tự Đức từng sai chém tướng sĩ khi những người này hoảng sợ bỏ chạy vì tiếng súng ở vùng Trà Sơn, để làm gương cho mọi người. Đi đôi với phạt thì cũng có thưởng. Một người dân tỉnh Quảng Nam đã được thưởng 10 quan tiền khi “bắt được một cỗ súng Quá sơn bằng đồng ở chân núi Trà Sơn (nặng 74 cân, đường kính nòng súng 1 tấc, thông trường 1 thước 9 tấc 7 phân)”. Những người “đóng lâu (ở Sơn Trà - NV) để làm việc, đều thưởng trước một tháng lương bằng tiền”.
Sơn Trà trong quan niệm của mọi người dưới thời Nguyễn còn là một trong những vùng đất thiêng, “tương truyền trên núi có ngọc, đêm đến thường chiếu sáng xuống biển”. Cho nên đương thời, Sơn phòng sứ tỉnh Quảng Nam là Nguyễn Tạo đã đề nghị lên triều đình cho ngăn cấm những núi có tiếng (Trà Sơn và Ngũ Hành Sơn), tức không cho khai thác đá, gỗ, củi, than, “để cho mạch đất hồi lại”. Vua Tự Đức còn sai quan đến tế thần Trà Sơn như là một trong những vị thần chủ để cầu mong sự an định cho quốc gia, dân tộc.
Các vua triều Nguyễn đã hết sức coi trọng vị thế của Sơn Trà, cho quy hoạch và quy định cụ thể việc giao thương, xây dựng các căn cứ quân sự, và thể hiện quan niệm tâm linh truyền thống về linh khí núi sông; khắc hình cửa biển Đà Nẵng ở chân núi Sơn Trà vào đỉnh đồng Dụ đỉnh đặt tại Đại Nội. Sơn Trà hết sức đặc biệt. Đó là lý do vì sao mà giặc Pháp trước đây nổ súng tấn công Việt Nam đầu tiên tại đây và giặc Mỹ cũng chiếm giữ vị trí này.
Giải phóng kịp thời các đảo thuộc quần đảo Trường Sa là chiến công đặc biệt xuất sắc, có ý nghĩa chiến lược của lực...
28/04/2020 14:56
Không chỉ nhằm tri ân những người lính trong đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa năm xưa đã hy sinh để bảo...
07/04/2020 11:26
Nước Việt Nam sở hữu cả chiều dài phần phía Đông đất liền là biển cả. Người Việt đã làm chủ và khai thác Biển...
25/02/2020 10:48
Ở Thừa Thiên Huế có một đồn Biên phòng “độc nhất vô nhị” được xây dựng cách đây 206 năm và tới giờ này vẫn...
15/03/2019 17:33
Nhà Lê sơ được sử cũ nhắc đến như thời kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam, dưới thời vua Lê Thái...
25/12/2018 09:04
Thư tịch cổ chữ Hán nước ta xưa nói nhiều đến câu thơ nổi tiếng về chiến lược biên cương của vua Lê Thái Tổ...
06/08/2018 08:37
Đình An Vĩnh trên đảo Lý Sơn là một trong những ngôi đình có từ lâu đời nhất ở tỉnh Quảng Ngãi.
23/04/2018 19:53
Minh Mạng là Hoàng đế của Vương triều Nguyễn có công đầu mở mang bờ cõi nước Việt.
18/04/2018 19:51
Trong lịch sử hào hùng của Đại Việt, vùng biên ải phía Bắc là nơi chứng kiến nhiều biến động.
04/04/2018 18:42
Trong lịch sử quân sự Việt Nam có một hệ thống thành lũy khá lợi hại. Dân gian vẫn gọi là Lũy Thầy.
27/10/2017 20:03
Vùng biển Vân Đồn nằm ở phía Đông Nam tỉnh Quảng Ninh, không chỉ có vị trí chiến lược quan trọng trên vùng biển Đông...
21/06/2017 16:13
"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" (nghĩa là sông Đằng từ xưa máu còn đỏ) là câu đối đáp của sứ thần nước ta...
10/08/2016 00:00
Trần Khánh Dư là một danh tướng đời nhà Trần, triều đại tồn tại từ năm 1226 đến năm 1400 tại Việt Nam. Ông không...
28/06/2016 16:45
Sinh năm 1620, tại xã Như Thiết, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc (nay là xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh...
15/06/2016 16:16
Biển, đảo giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc, nhất là chủ quyền đối với các quần đảo trên Biển Đông,...
13/06/2016 18:11