Sự hình thành Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển

25/11/2024 17:23

Năm 2024 đánh dấu 30 năm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) chính thức có hiệu lực (từ ngày 16/11/1994), khuôn khổ pháp lý toàn diện điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và có giá trị lịch sử quan trọng trong quản trị biển và đại dương. Trong ba thập kỷ qua, thế giới đã trải qua nhiều biến động, và Công ước cũng không ngoại lệ khi phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau, từ biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng, cho đến các công nghệ mới như tàu tự hành, tàu không người lái. Nhân dịp này, chúng ta hãy cùng nhìn lại sự hình thành, vai trò và đóng góp của Công ước trong 30 năm qua cũng như trong giải quyết những nhu cầu và thách thức đang nổi lên về quản trị biển và đại dương, đặc biệt là các vấn đề mới nổi từ đầu thế kỷ 21.

Sự hình thành UNCLOS và những “đột phá” trong lĩnh vực luật biển

Trong những năm 1960-1970, nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến biển và đại dương đã bắt đầu nổi lên, như cơ chế đánh bắt cá chưa được quy định rõ ràng và gây nhiều tranh cãi, hay các nước mới giành được độc lập từ quá trình phi thuộc địa hoá nhận thấy phải tái định hình các quy định về luật biển để phản ánh lợi ích của họ. Bất đồng quan điểm giữa các nước đang phát triển và các cường quốc về biển cũng ngày càng lộ rõ trong thời gian này khi một bên muốn mở rộng phạm vi thẩm quyền và quyền tài phán trên biển, trong khi bên còn lại muốn đảm bảo các quyền tự do trên biển và hạn chế mở rộng phạm vi quyền tài phán của các quốc gia ven biển. Một số nước duy trì phạm vi lãnh hải 3 hải lý, trong khi đó một số nước lại theo xu hướng muốn mở rộng phạm vi lãnh hải hơn 3 hải lý để quản lý và khai thác tài nguyên biển hiệu quả. Đồng thời, vấn đề bảo tồn tài nguyên biển khỏi các tác hại từ sự thiếu quản lý của con người cũng nổi lên và trở thành một mối lo ngại của cộng đồng quốc tế.

Trong những năm 1970 đến 1980, một loạt các nghị quyết và tuyên bố đã đặt nền tảng cho quá trình đàm phán UNCLOS, phản ánh sâu sắc mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế thời bấy giờ. Có thể kể đến một số văn kiện quan trọng như: Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc về chủ quyền vĩnh viễn đối với tài nguyên thiên nhiên (1962), Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 2750C (1970) quyết định tổ chức Hội nghị về luật biển nhằm thiết lập cơ chế quốc tế công bằng cho vùng và tài nguyên ở đáy biển và nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia, Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 2749 (1970) Tuyên bố về các Nguyên tắc điều chỉnh đáy biển, đáy tầng đại dương và lòng đất nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia, Tuyên bố Stockholm (1972) nhân dịp Hội nghị Liên hợp quốc đầu tiên về môi trường, Nghị quyết số 3067 (1973) của Đại hội đồng Liên hợp quốc quyết định nhiệm vụ của Hội nghị luật biển nhằm thông qua một công ước giải quyết tất cả các vấn đề liên quan tới luật biển…

Xuất phát từ nhu cầu khai thác tài nguyên biển, và bảo vệ môi trường biển, các quốc gia quyết tâm nỗ lực đàm phán xây dựng một văn kiện mới về luật biển. Sau 9 năm đàm phán, tại Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển lần thứ 3, các quốc gia đã thành công xây dựng một điều ước quốc tế toàn diện, phổ quát nhằm giải quyết các mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế lúc bấy giờ, chính là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển. Bản “Hiến pháp về biển và đại dương” bao gồm 17 phần, 320 điều và 9 phụ lục, là khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các hoạt động quản lý và sử dụng biển và đại dương, được thông qua và mở ký vào năm 1982 với một số nội dung nổi bật sau đây:

Thứ nhất, ngay tại phần lời nói đầu, Công ước đã ghi nhận việc “sử dụng công bằng và hiệu quả những tài nguyên” và “có tính đến các lợi ích và nhu cầu riêng của các nước đang phát triển, dù có biển hay không có biển”. So sánh với các điều ước quốc tế về biển trước đó (gồm Công ước về Lãnh hải và vùng Tiếp giáp lãnh hải và Công ước về Thềm lục địa năm 1958), UNCLOS có quy định thêm về vùng đặc quyền kinh tế, qua đó trao một số đặc quyền cho các quốc gia ven biển về quản lý và khai thác tài nguyên biển. Đồng thời, theo Công ước, Vùng (the Area) và tài nguyên tại đây được coi là “di sản chung của nhân loại” và được đặt dưới sự kiểm soát và quản lý của Cơ quan quyền lực quốc tế đáy đại dương (the International Seabed Authority). Cơ quan này sẽ giúp quản lý việc khai thác tài nguyên từ đáy biển và chia sẻ lợi ích thu được từ việc khai thác này cho tất cả các nước khác thông qua  Việc thiết lập thêm vùng đặc quyền kinh tế và đặt Vùng dưới sự quản lý của một tổ chức quốc tế được trao quyền bởi tất cả các quốc gia thành viên UNCLOS đã giúp điều hoà lợi ích khác nhau giữa các nước khi một mặt mở rộng phạm vi quyền tài phán cho các nước ven biển để khai thác và quản lý tài nguyên thiên nhiên biển và đáy biển, và mặt khác duy trì sự tự do ở mức nhất định và đảm bảo tôn trọng quyền lợi của các nước khác.

Thứ hai, Công ước không chỉ giải quyết vấn đề về khai thác tài nguyên biển, mà còn phản ánh xu hướng mở rộng phạm vi các vùng biển và quyền tài phán của các quốc gia ven biển và đưa ra cơ sở thống nhất để các quốc gia xác định ranh giới trên biển và phân định biển. Công ước lần đầu tiên quy định chính xác phạm vi lãnh hải rộng tới 12 hải lý, và xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng tới 200 hải lý với một số đặc quyền cho các quốc gia ven biển về khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên. So với Công ước năm 1958 về Thềm lục địa, UNCLOS đã đưa ra các giải pháp nhằm xác định rõ ranh giới ngoài của thềm lục địa, qua đó đặt ra giới hạn cho việc mở rộng vùng thềm lục địa ngoài 200 hải lý của quốc gia ven biển. Như vậy, so với các quy định trong các điều ước quốc tế và tập quán về luật biển trước đó (ví dụ như quy tắc 3 hải lý đối với lãnh hải), UNCLOS đã mở rộng đáng kể phạm vi thẩm quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và chứa đựng những quy định rõ ràng hơn về xác định ranh giới biển và phân định biển.

Thứ ba, UNCLOS quy định rõ ràng nghĩa vụ bảo tồn môi trường biển khi dành hẳn một Chương riêng (Chương XII) đề cập việc bảo vệ môi trường biển, quyền và trách nhiệm của quốc gia ven biển trong việc quản lý và bảo vệ môi trường biển trong vùng biển thuộc quyền tài phán của mình. Tại Hội nghị về Tuyên bố Stockholm và Luật môi trường biển tại Thuỵ Điển năm 2002, Ông Hans Corell, Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc phụ trách vấn đề pháp lý từ năm 1994 đến 2004, cho rằng “Công ước, được xây dựng dựa trên các nguyên tắc được nêu trong Tuyên bố Stockholm năm 1972, chứa đựng các quy định toàn diện về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển”. Thật vậy, đối với quốc gia ven biển, trong vùng đặc quyền kinh tế, Điều 61 yêu cầu quốc gia ven biển phải có “các biện pháp phù hợp về quản lý và bảo tồn nhằm duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia đó khỏi bị ảnh hưởng do khai thac quá mức”. Đối với tất cả các nước thành viên, Điều 192 quy định nghĩa vụ chung về bảo vệ và bảo tồn môi trường biển; Điều 194 nêu cụ thể về các biện pháp về ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Rõ ràng đây là một sự tiến bộ rõ rệt của Công ước so với các điều ước quốc tế về biển trước đây (Công ước Geneva về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải và Công ước về thềm lục địa năm 1958), qua đó giải quyết mối quan ngại về ô nhiễm biển gây ra bởi hoạt động của con người.

Những phát triển mới trong giai đoạn 1982 - 1994

Sau khi được thông qua, trong khoảng thời gian từ năm 1982 tới 1994-1995, Công ước vấp phải hai thách thức lớn. Thứ nhất, một số nước công nghiệp, ví dụ như Mỹ, đã phản đối Chương XI (Vùng) về các quy chế và cơ chế liên quan tới phần Vùng. Theo cựu Thẩm phán Toà án Luật biển Quốc tế Helmut Tuerk, một số nội dung trong Chương XI của UNCLOS gây nhiều bất đồng ý kiến vì thiên vị các nước đang phát triển và không tuân theo cách tiếp cận thị trường. Thứ hai, do Công ước chỉ quy định khuôn khổ pháp lý chung (chủ yếu kêu gọi hợp tác quốc tế để thực hiện việc bảo tồn và quản lý đàn cá) và những thay đổi mới về công cụ đánh bắt cá, nên gây ra những lo ngại về tồn tại khoảng trống trong điều chỉnh về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa. Cụ thể, do một số đàn cá không hoàn toàn chỉ nằm trong phạm vi vùng biển thuộc quyền tài phán của các quốc gia ven biển, mà di cư qua các vùng biển khác và vùng biển cá, do đó cần có sự hợp tác quốc tế để bảo tồn các loài cá này. Đồng thời, tại thời điểm những năm 1990, các quốc gia ven biển mở rộng phạm vi thẩm quyền và quyền tài phán trên biển và không có nhiều nỗ lực để giảm thiểu việc đánh bắt cá quá mức, vì vậy số lượng cá tại nhiều bãi ngư trường lớn đã sụt giảm.

Để giải quyết những khó khăn này, vận dụng các quy định mang tính nguyên tắc của Công ước, các quốc gia đã tiến hành đàm phán xây dựng hai Hiệp định thực thi gồm: Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của Công ước và Hiệp định năm 1995 về đàn cá lưỡng cư và di cư xa. Các hiệp định này đã giúp UNCLOS thích ứng với tình hình mới và giải quyết các phản đối từ các nước công nghiệp về Chương XI; đồng thời bổ sung các quy định chi tiết hơn để bảo tồn và quản lý các đàn cá dễ bị tổn thương, góp phần giúp đẩy nhanh tiến trình phê chuẩn Công ước của nhiều quốc gia.

Cùng chuyên mục
Biên giới Việt Nam-Lào là cầu nối quan trọng của hợp tác khu vực
Biên giới Việt Nam-Lào là cầu nối quan trọng của hợp tác khu vực

Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Minh Tâm khẳng định khi có đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác giữa hai bên...

Việt Nam vận dụng tốt các quy định của UNCLOS
Việt Nam vận dụng tốt các quy định của UNCLOS

Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982 đang phát huy giá trị trong thực tiễn, giúp Việt Nam, các nước ven...

Biên giới Việt - Lào: Đâu chỉ có núi non hùng vĩ, còn có tình người vượt thời gian
Biên giới Việt - Lào: Đâu chỉ có núi non hùng vĩ, còn có tình người vượt thời gian

Dọc tuyến biên giới dài khoảng 2.340 km giữa Việt Nam và Lào, đâu chỉ là những dãy núi hùng vĩ và bạt ngàn rừng...

UNCLOS: Những đóng góp quan trọng trong giải quyết các vấn đề mới nổi về quản trị biển và đại dương
UNCLOS: Những đóng góp quan trọng trong giải quyết các vấn đề mới nổi về quản trị biển và đại dương

Trong 30 năm qua, UNCLOS đã được cộng đồng quốc tế nhất trí ghi nhận và nhấn mạnh nhiều lần như là “Hiến pháp của...

Hiệp ước Biển cả - BBNJ: Cơ hội để Việt Nam mở rộng tầm nhìn ngoài Biển Đông
Hiệp ước Biển cả - BBNJ: Cơ hội để Việt Nam mở rộng tầm nhìn ngoài Biển Đông

Trả lời phỏng vấn trong khuôn khổ Đối thoại Biển lần thứ 13 (ngày 14/11) tại Cần Thơ do Học viện Ngoại giao phối hợp...

Đối thoại Biển lần thứ 13: Khám phá ranh giới mới của vùng biển quốc tế
Đối thoại Biển lần thứ 13: Khám phá ranh giới mới của vùng biển quốc tế

Ngày 14/11/2024, Đối thoại Biển lần thứ 13 với chủ đề “Khám phá ranh giới mới của vùng biển quốc tế” do Học viện Ngoại...

Đối thoại Biển lần thứ 13: Khám phá ranh giới mới của vùng biển quốc tế
Đối thoại Biển lần thứ 13: Khám phá ranh giới mới của vùng biển quốc tế

Ngày 14/11/2024, Đối thoại Biển lần thứ 13 với chủ đề “Khám phá ranh giới mới của vùng biển quốc tế” do Học viện Ngoại...

Hướng tới phát triển bền vững khu vực biển Đông Á
Hướng tới phát triển bền vững khu vực biển Đông Á

Sáng 06/11, Đại hội biển Đông Á 2024 với chủ đề: “Hợp lực xanh vì một tương lai chung: Một đại dương bền vững và...

Luật pháp quốc tế là “la bàn” cho tranh chấp trên biển
Luật pháp quốc tế là “la bàn” cho tranh chấp trên biển

Trả lời phỏng vấn bên lề Hội thảo quốc tế Biển Đông lần thứ 16 diễn ra từ ngày 23-24/10 tại Quảng Ninh, ông Niclas...

Nỗ lực ngoại giao đáng ghi nhận của Việt Nam vì biên giới, biển, đảo, hòa bình và phát triển
Nỗ lực ngoại giao đáng ghi nhận của Việt Nam vì biên giới, biển, đảo, hòa bình và phát triển

Đó là nhận định của Trưởng đại diện Phái đoàn Wallonie-Bruxelles tại Việt Nam Pierre Du Ville về những nỗ lực của Việt Nam trong...

Kinh nghiệm hợp tác biên giới Canada – Mỹ
Kinh nghiệm hợp tác biên giới Canada – Mỹ

Tại Hội thảo quốc tế “Hợp tác vì biên giới, biển, đảo hòa bình và phát triển”, ông Adib Abbasi, cán bộ liên lạc của...

Kinh nghiệm của Bỉ trong xử lý vấn đề biên giới trên đất liền
Kinh nghiệm của Bỉ trong xử lý vấn đề biên giới trên đất liền

Tại Hội thảo quốc tế “Hợp tác vì biên giới, biển, đảo hòa bình và phát triển”, ông Erik Franckx, Giáo sư danh dự tại...

  Luật pháp quốc tế trong xây dựng, đàm phán và ký kết hiệp ước biên giới
Luật pháp quốc tế trong xây dựng, đàm phán và ký kết hiệp ước biên giới

Là một quốc gia vừa có biên giới trên bộ, vừa có biên giới trên biển, , Việt Nam luôn tôn trọng và thiện chí...

Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị: Tập trung tối đa hoàn thành “sứ mệnh”
Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị: Tập trung tối đa hoàn thành “sứ mệnh”

Những năm qua, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế (CKQT) Hữu Nghị ((Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn) luôn hoàn...

Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc: Thành công được xây đắp bằng quyết tâm và trí tuệ
Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc: Thành công được xây đắp bằng quyết tâm và trí tuệ

Năm 2024 đánh dấu 25 năm Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc và 15 năm...

Tin đọc nhiều
Tuyên bố chung Việt Nam - Brasil về việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược
Đoàn đại biểu tỉnh Hủa Phăn (CHDCND Lào) thăm, chúc Tết tỉnh Quảng Ninh
Đoàn công tác của Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ thăm và làm việc tại tỉnh Sơn La
Tăng cường nhận thức về các vấn đề biên giới lãnh thổ cho sinh viên đại học
Thương mại biên giới Việt Nam - Lào: Còn nhiều dư địa thuận lợi cho tăng trưởng
Sóc Trăng phát động đợt cao điểm tuần tra, xử lý hành vi khai thác IUU
Vùng 5 Hải quân: Tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp tuyên truyền biển, đảo
Đại tướng Phan Văn Giang hội đàm với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia
Tăng cường hợp tác giữa Điện Biên với 3 tỉnh Bắc Lào
Tăng cường hợp tác bảo đảm an ninh tại cặp Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo (Việt Nam) và Đensavan (Lào)
UNCLOS: Những đóng góp quan trọng trong giải quyết các vấn đề mới nổi về quản trị biển và đại dương
Cảnh sát biển Việt Nam xuất phát đi tuần tra liên hợp trên vùng biển lân cận đường phân định Vịnh Bắc Bộ lần 2 năm 2024
Giải quyết triệt để tàu cá ‘2 không’, ‘3 không', tàu cá mất kết nối
Chủ tịch nước Lương Cường làm việc với Bộ Ngoại giao
Phối hợp xây dựng hiệu quả các Đài hữu nghị Việt Nam – Campuchia tại Vương quốc Campuchia
Ban hành bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo
Góp phần xây dựng đường biên vững chắc
Thủ tướng Việt Nam-Lào đồng chủ trì Kỳ họp Ủy ban liên Chính phủ hai nước
Tết sớm cùng quân và dân huyện đảo Bạch Long Vĩ
'Lá chắn thép' nơi vùng biển Tây Nam của Tổ quốc
Nhiều hoạt động thiết thực trên tuyến biên giới Việt - Lào
Xây dựng khu vực biên giới vững mạnh
Thành lập Khu kinh tế ven biển phía Nam Hải Phòng
Quan hệ Việt Nam-Lào là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam
Tạo động lực phát triển kinh tế cửa khẩu ở Lạng Sơn
Ủy ban Thủy đạc Việt Nam tổng kết công tác thủy đạc giai đoạn 2015-2024
Cảnh sát biển Việt Nam - Indonesia luyện tập chung, tăng cường hợp tác
Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ tiếp Đoàn Bộ Ngoại giao và các Đại sứ Pháp tại khu vực châu Á
Trao đổi sâu rộng về các lĩnh vực hợp tác trong quan hệ Việt Nam - Lào
Biên phòng Kiên Giang tăng cường phòng, chống khai thác IUU